XtGem Forum catalog
Trang chủ

Đọc Truyện Online

Tuyển Chọn Tiểu Thuyết, Tình Cảm Hay Nhất

Bay đến thiên đường

Cứ vậy cứ vậy. 

Tôi nghe đi nghe lại một bài hát cũ, lái xe đi khắp vùng Tây Nam Trung Quốc. 

Tôi đi qua núi tuyết, đi qua thảo nguyên, đi qua hồ nước, đi qua rừng sâu, đi qua thôn làng, đi qua thị trấn, đi qua biển mây, đi qua trời xanh, đi qua đêm trừ tịch dưới ánh pháo hoa và tiếng reo hò, đi qua lễ tình nhân cô đơn đáng lẽ thuộc về thế giới lãng mạn của hai người, đi qua năm tháng, đi qua ngày mai. 

Không gì cản trở nổi tôi kiếm tìm người yêu dấu. 

Lông Mi của tôi.  

Cứ vậy cứ vậy. 

Tôi nghe đi nghe lại một bài hát cũ, lái xe đi khắp vùng Tây Nam Trung Quốc. 

Tôi đi qua núi tuyết, đi qua thảo nguyên, đi qua hồ nước, đi qua rừng sâu, đi qua thôn làng, đi qua thị trấn, đi qua biển mây, đi qua trời xanh, đi qua đêm trừ tịch dưới ánh pháo hoa và tiếng reo hò, đi qua lễ tình nhân cô đơn đáng lẽ thuộc về thế giới lãng mạn của hai người, đi qua năm tháng, đi qua ngày mai. 

Không gì cản trở nổi tôi kiếm tìm người yêu dấu. 

Lông Mi của tôi. 

Tôi không đau lòng, cũng không rơi lệ. Mà luôn nở một nụ cười, lòng tràn đầy niềm tin. 

Giống như cô gái đầu đội khăn đỏ ở Đạo Thành, giống như bà lão ở Bôn Ba Tự, giống như các bà lão tộc Lật Túc hát tiễn đưa người chết về chốn thiên đường. 

Tôi bắt đầu thích ánh mặt trời, thích tắm mình trong ánh sáng rực rỡ: mặt trời lặn ở thảo nguyên, binh minh trên đỉnh núi tuyết, mặt trời chiếu rọi trên vai tôi, nhảy múa ngoài cửa xe. Ánh sáng là vị pháp sư tài giỏi nhất trên đời này, nó có thể biến ra vô số màu sắc và đường nét, tạo nên những thứ mà ta không thể nào tưởng tượng nổi. Ánh sáng đã cảm hóa tôi, dung hòa tôi, cổ vũ tôi tiếp tục con đường của mình. 

Lòng cảm kích vô vàn, tôi tiếp tục lên đường. 

Tôi bắt đầu cảm kích hồ nước. 

Mỗi khi thấy khát, mẹ tự nhiên vĩ đại lại cho xuất hiện trước mắt tôi một mặt hồ trong mát như tấm gương soi. Tôi ngồi thụp xuống bên bờ hồ uống nước, cẩn thật vốc nước lên rửa mặt, rồi hắt nước bẩn sang một bên. Có lần soi mình trong đáy nước: thấy một người mặc chiếc áo rách rước, quàng một tấm khăn bẩn thỉu, đôi giày bẩn há mõm, quần bò đã đứt tung cả cúc, mặt đầy râu ria. Nhưng tôi không đau lòng, ngược lại còn mỉm cười, mỉm cười đầy hạnh phúc. Bởi vì tôi nhìn thấy một "tôi" khác, một "tôi" khác đã bắt đầu bước lên chung một con đường số phận với Lông Mi. Tôi tin rằng Lông Mi, người yêu dấu của tôi, vào lúc ấy cũng đang ngồi bên một mặt hồ khác, lặng lẽ soi mình, thi thoảng nhớ đến tôi. Chỉ cần thi thoảng thôi là tôi cũng đủ thỏa mãn lắm rồi. Trước khi nước mắt tuôn ra khỏi khóe mắt, tôi sẽ mỉm cười mà lặng lẽ bước đi. 

Tôi bắt đầu cảm kích rừng sâu. 

Mỗi khi mệt mỏi, rừng sâu lại như biết trước mà cho tôi một khoảng đất trống. Tôi sẽ dừng lại, dựng lều đốt lửa. Hàng đêm, tôi sẽ ngồi bên ngoài túp lều nhỏ, ngắm nhìn mặt trăng. Mặt trăng của vùng cao nguyên Tây Nam lúc nào cũng trong sáng như vậy, trong sáng đến nỗi làm người ta cảm động, nhiều lúc tôi nhìn đến xuất thần, chợt lo lắng vầng trăng ấy sẽ rơi xuống. Không đủ thức ăn, tôi học được cách tìm kiếm thức ăn trong rừng. Tôi thích nhất là một thứ cỏ có tên Thố Thố Thảo, hồi nhỏ hay dùng để cho thỏ ăn, bên trong có rất nhiều nước ngọt như sữa. Trong rừng có rất nhiều thỏ hoang, chúng đều là bạn tốt của tôi. Tôi rất thích ngắm nhìn chúng vui vẻ chạy đuổi chung quanh mình, đôi bên đều thấy rất an toàn và thỏa mãn. 

Tôi bắt đầu thấy hàm ơn những người dân mộc mạc giản dị. 

Mấy lần bị sốt cao giữa vùng hoang vắng bên người lại không mang thuốc, đành cố nhịn đau, tiếp tục lên đường. Mỗi lần như vậy, bên đường lại xuất hiện một căn nhà gỗ nhỏ, bên trong sẽ có mấy người Khang Ba hiền lành lương thiện. Họ sẽ nhiệt tình đỡ tôi vào, đốt lò than lên, đun nước sôi, cho tôi uống thứ thuốc đặc biệt của dân tộc mình. Họ sẽ chạy đi chạy lại, lo lo lắng lắng, như sợ tôi sẽ có chuyện gì. Vẻ mặt âu lo của họ luôn khiến tôi rơi nước mắt. Tôi lại nhớ đến Lông Mi, nghĩ đến những lúc em rơi vào hoàn cảnh giống mình, không biết có ai chăm sóc an ủi em không ? 

Tôi bắt đầu cảm tạ sự cô độc. 

Cô độc là một thứ sức mạnh. Một thứ sức mạnh vĩ đại và bao la. Chỉ có hoàn toàn chìm đắm trong cô độc, ta mới thấu hiểu được thêm nhiều chân lý. Tôi cứ ngồi trước vô lăng, mấy tiếng đồng hồ liên tục không đổi tư thế, chỉ có mắt là hoạt động, cô độc tiến lên phía trước, cô độc suy nghĩ, cô độc kiếm tìm. Tôi cô độc, nhưng không cô đơn, bởi vì trong lòng tôi có tình yêu. 

Tôi bắt đầu cảm tạ âm nhạc. 

Tôi cảm tạ Hứa Nguy, DIDO, RICE, The Beatles, Bob Marley, Bach và Mozart. Cám ơn họ đã luôn ở bên tôi, an ủi tinh thần tôi, cùng tôi trải qua năm tháng, giúp lòng tin của tôi thêm kiên cường vững chắc, lòng tin để tiếp tục sống, lòng tin vào cuộc tìm kiếm dài đằng đẵng này. 

Tôi bắt đầu hàm ơn "chính tôi" 

Tuy rằng tôi vẫn còn chưa hoàn toàn cảm nhận được cái "tôi" ấy. 

Không tìm được Lông Mi ở vùng giáp ranh giữa hai tỉnh Xuyên, Điền. 

Cuối cùng lại đến huyện Hương Cách Lý La. 

Khi đến Tiểu Trung Điện, tự nhiên vĩ đại đã cho tôi một niềm vui bất ngờ. 

Xe đi qua Quá Hổ Khiêu, chạy vòng quanh núi, lên đỉnh núi phủ tuyết. Vừa rẽ ngoặt một cái, tầm nhìn đột nhiên mở rộng vô bờ, phía trước hiện ra một đồng cỏ rộng mênh mông. Đồng cỏ nằm giữa hai rặng núi, toàn bộ là một màu vàng ấm áp, điểm xuyết bằng một vài bụi cây thấp lè tè, một đàn trâu đen đang ung dung tản bộ, một hồ nước nhỏ trong vắt, mấy ngôi nhà kiểu dân tộc Tạng, thậm chí còn nghe được cả tiếng chuông treo trước cửa kêu đinh đinh đang đang. 

Tất cả đều yên bình đến lạ thường. 

Phảng phất như lúc tôi đi qua, Thượng Đế đột nhiên đưa ngón tay lên miệng "suỵt" một tiếng rồi nói: "Đừng bao giờ quấy nhiễu sự yên bình của nơi này." 

Dừng xe ngồi trên bãi cỏ, hứng ngọn gió lành lạnh, nghe nhạc, lòng không nén nổi cảm xúc trào dâng. 

Đột nhiên nhớ ra Lông Mi đã từng nói muốn xây một ngôi nhà gỗ dưới chân núi tuyết, sống lặng lẽ đến hết đời. 

Quyết tâm phải thực hiện giấc mơ đó bằng được. 

Giấc mơ của em, cũng là giấc mơ của tôi. 

Sau một chặng đường dài, cuối cùng cũng đến huyện thành Hương Cách Lý La. 

Tôi đi thăm thành cổ trước. Nơi đây vẫn còn hoang sơ, du khách rất ít, khách sạn cũng không nhiều, tìm khắp một lượt cũng không thấy Lông Mi đâu, bèn dự định đi Đức Khâm, có thể em đang ở đó ngắm núi tuyết Mai Lý cũng nên. Nhưng đường đi đã bị tuyết lớn bít kín, không thể đi tiếp, tôi đành kiếm tạm một khách sạn chui vào. Đêm xuống, lại chui vào quán bar, gọi một tách trà phổ nhĩ, nhìn khách du lịch nói chuyện, quan sát trang trí trong quán, nghĩ về Lông Mi, lặng lẽ ngồi đến khi nào mệt thì đứng dậy về khách sạn. 

Tôi không về phòng luôn mà lại vào quán bar trong khách sạn. Số người cũng vừa phải, ồn ào nhưng ấm áp. Tôi ngồi ngây ra một lúc trong ấy rồi gọi một tách trà sữa để đổi khẩu vị. Ông chủ ăn mặc kiểu người Tạng đổ cho tôi một bát đầy thứ trà sữa kỳ lạ của họ. Tôi nhấp thử một ngụm nhỏ, mùi vị cũng không tệ lắm, nhưng cũng chẳng ngon lành gì. Góc quán có một đám người Tạng đang khoa tay múa chân nói chuyện gì đó. Bên quầy bar có vài người nước ngoài, hình như là đi Mai Lý để tập leo núi thì phải. Một người lớn tiếng chê bai người Nhật, hình như gần đây có một đội leo núi người Nhật đã gặp nạn thì phải. 

- Ít nhất thì họ cũng có dũng khí để thử, các người có không ? 

Lần theo giọng nói, thì ra là một cô gái ngồi sau cây cột lớn. 

Mấy người nước ngoài nhún nhún vai, bật cười mấy tiếng rồi chuyển qua chủ đề khác. 

Ông chủ gọi cô gái lại ngồi cạnh, nhiệt tình giới thiệu cho tôi, nói cô cũng muốn đi Mai Lý, nhưng bị tuyết cản đường, đợi ở đây đã nhiều ngày đến hôm nay chắc đã không chịu được nữa, nên tâm trạng không được tốt lắm. Mới lại cô ấy cũng là người Nhật nữa. 

- Không đúng, tôi là con lai Nhật và Trung Quốc. 

Cô gái có vẻ bất mãn sửa lại. 

Chúng tôi nói chuyện về núi tuyết Mai Lý, cả ngọn núi thần trong lòng người dân tộc Tạng, núi Karakorum. 

Cô gái nói với tôi bằng một thứ tiếng Trung lơ lớ, núi Karakorum là núi tuyết vẫn chưa bị con người chinh phục. Từ khi trái đất được sinh ra, nó vẫn cô đơn đứng ở đó, không ai leo lên nổi, vẫn chưa có ai dẫm chân lên đỉnh núi để tạo ra cái gọi là huyền thoại sống cả, chính vì thế mà nó lại càng thêm huyền ảo và thần bí. 

Khi nói đến chuyện đoàn leo núi người Nhật gặp nạn, nét mặt cô gái có vẻ rất buồn, nói đó đúng là một ngọn núi thần khiến người ta vừa kính vừa sợ. Người dân địa phương nói xưa nay không ai có thể sống sót trở về, nhưng người Nhật không tin, kết quả là tất cả đều gặp nạn. 

Lò lửa trong phòng cháy bừng bừng, tỏa ra hơi ấm nồng nàn. 

Thỉnh thoảng lại có một khoảnh khắc như vậy, tất cả đều im lặng, ánh lửa bập bùng chiếu hồng gương mặt từng người một, núi tuyết lờ mờ bên ngoài cửa sổ ... 

Tôi và cô gái cùng bước ra khỏi quán. Cô nói ngày mai sẽ đi Đức Khâm. Tôi ngạc nhiên hỏi không phải tuyết đã bít kín đường rồi hay sao. 

Cô gái giơ một ngón tay lên nói: 

- Tuyết chỉ bịt kín đường của những kẻ nhát gan thôi. 

Tôi liền nắm lấy vai cô, chân thành khuyên giải: "Cho dù cô là người Nhật hay người Trung Quốc, tôi cũng không hi vọng cô gặp chuyện gì nguy hiểm. Tuyết đã bịt kín mọi con đường rồi, để hôm khác đi. 

Cô gái cụp mắt xuống, tuyệt vọng nhìn tôi, rồi cười buồn nói: 

- Biết chứ. Nhưng ngày mai tôi nhất định phải đi! Bởi vì ngày mai là ngày giỗ của anh ấy. Anh ấy là thành viên của đoàn leo núi tử nạn ở núi Karakorum đó. Tôi tới đây là để tìm anh ấy, tôi nhất định phải tìm được! Ngày mai, đối với anh ấy, với tôi, với ngọn núi Karakorum mà chúng tôi sùng bái đều rất đặc biệt! 

Cô gái vừa nói vừa khóc. 

Tôi ngây người, rồi khe khẽ ôm lấy cô, vỗ nhẹ lên vai như để an ủi. 

Một cô gái nước ngoài vượt qua ngàn dặm đến kiếm người yêu, một người chết ? Mạo hiểm cả mạng sống của mình chỉ vì một ngày kỷ niệm ? 

Tôi đột nhiên cảm thấy hổ thẹn vô cùng, nhưng quyết tâm tìm kiếm Lông Mi cũng càng thêm kiên định.


Một buổi sáng sớm tôi nhận được tin tuyết đã ngưng rơi, có thể tiếp tục lên đường. 

Sau một chặng đường dài đi qua thế giới tuyết trắng xóa, cuối cùng tôi cũng đến được Đức Khâm. Tôi chọn một khách sạn ở gần Phi Lai Tự, đối diên với núi tuyết Mai Lý. Rất nhiều người đang ở đây đợi xem núi Karakorum, nghe nói ngọn núi này đã bị mây che phủ nhiều tuần. Hỏi thăm mọi người về Lông Mi, nhưng không có tin tức gì. Tôi lại hỏi về cô gái người Nhật kia, cũng không có tin tức. 

Đi lang thang trong Phi Lai Tự, đứng lại rất lâu trước một bức Hộ pháp kim cương đồ, lặng lẽ khấn cầu thay Lông Mi.  

Sáng sớm tự dưng không ngủ được, như có ai đó gọi dậy vậy. 

Tôi mặc quần áo, xuống giường ra tựa vào ngoài hành lang, tựa vào lan can nhìn về phía rặng Karakorum vẫn bị mây mù bao phủ. Núi Mai Lý như một tấm gương lớn, đột nhiên nhìn thấy trong đó một tôi khác. 

Tôi trong quá khứ, sớm đã không còn là "tôi mà tôi muốn trở thành", ngược lại biến thành "tôi bị khát vọng nhấn chìm" - không tự do, tuy rằng nhìn bề ngoài thì có vẻ tự do. Lúc nào cũng muốn tìm đủ mọi cách để thỏa mãn ham muốn, mất đi "quyền tự do chọn lựa ham muốn" . Phóng túng quá đỗi, đổi lại chỉ là một sự tù túng không hơn không kém. 

Vừa ăn cơm sáng, tôi vừa thương lượng với một nhóm du lịch ba lô cùng đi Tây Tạng, tôi có xe họ có tiền, định đến La Sa. Cả đoàn người lên đường trong nhịp điệu vui vẻ của bài ca Cao nguyên Thanh Tạng, lửa nhiệt tình dâng cao ngùn ngụt. Chúng tôi đi qua Mang Khang, Bát Túc, Ba Mật, Bát Nhất Trấn, Công Bố Giang Đạt, vượt bao dặm trường gian khó cuối cùng cũng đến được La Sa. Như thỏa thuận từ trước, vừa đến La Sa tất cả đã tỏa đi tìm Lông Mi giúp tôi, có người phụ trách Bố Đạt Lạp Cung, có người phụ trách Đại Chiêu Tự, phố Bát Giác, cuối cùng hẹn nhau gặp mặt tại phố Bát Giác. 

Tôi đến ĐạiC hiêu Tự tìm một lượt, chăm chú quan sát từng người đi lễ, nhưng cũng không thấy bóng em đâu. Hoàng hôn buông xuống, làm Lưu Kim Điện trong Đại Chiêu Tự sáng bừng lên, một dòng người đang xếp hàng đi vào, tay lần chuỗi hạt, miệng không những lẩm nhẩm tụng niệm, để lại những chiếc bóng dài. 

Trở về quán nhỏ ven đường trên phố Bát Giác, những người khác cũng không có thu hoạch gì. Để tỏ lòng cảm ơn, tôi mời cả bọn ăn một bữa thịt bò với bánh. Ăn xong, họ lên phố đi dạo, còn tôi thì không có tâm trạng đi chơi, bèn ngồi một mình uống trà sữa, mệt mỏi ngồi ngây ra trên thảm. Ngồi mãi cũng chán, tôi leo lên lầu hai, trên tường treo đủ thứ tranh khác nhau.  

Đột nhiên phát hiện ra bức Mẹ của Lông Mi. 

Tôi hầu như không dám tin vào mắt mình nữa. 

Nước mắt trào ra. Gắng sức tự khống chế mình. 

Tôi chạy đi tìm chủ quán. 

Tôi quá đỗi kích động, răng sít lại, lắp ba lắp bắp yêu cầu mua bức tranh. Chủ quán nhìn tôi một lượt từ trên xuống dưới, rồi nói tác giả dặn không được bán. Sau đó anh ta lại hỏi tôi tên họ là gì. Trả lời xong, anh ta liền lấy ra một phong thư, đối chiếu với tên họ trên đó, rồi thở dài, đưa cho tôi, nói: 

- Có một cô gái đợi anh ở đây rất lâu, ngày nào cũng ngồi từ sáng sớm đến khi mặt trời tắt nắng, lặng lẽ chờ đợi. 

Giọng nói dường như trách móc tôi gì đó, rồi lại thấy vẻ mặt ảm đạm của tôi, không biết nên nói gì nữa, đành lắc đầu thửo dài bước đi. 

Tôi tìm một góc yên tĩnh. Trên phong bì có ghi ngày tháng, khoảng chừng nửa năm về trước. 

Cẩn thận mở ra. Bút tích của Lông Mi. 

Thế nhưng không dám xem. 

Quay đầu lại nhìn ngọn núi tuyết ngoài cửa sổ, một lúc lâu sau, cố kìm chế không để tim đập quá mạnh, hai tay nâng lên, chăm chú đọc: 

Em mệt rồi. Mệt lắm. 

Muốn dựa vào bờ vai anh. 

Muốn nghe anh hát "Những bông hoa ấy". 

Thường nghĩ đến ngôi nhà nhỏ trên núi tuyết kia. 

Cái đêm ấm áp đó. 

Chỉ cuộc hẹn này. 

Lấy hết dũng khí, lặng lẽ chờ đợi, thử cho anh một cơ hội cuối cùng. 

Đáng tiếc anh lại không đến. 

Dường như anh không hề trân trọng cơ hội này. 

Đành phải ra đi, tiếp tục lưu lãng. 

Có người nói sai lầm lớn nhất của con người, chính là năm lần bẩy lượt tha thứ sai lầm cho đối phương. 

Em sợ sẽ phải đối mặt với anh một lần nữa, sẽ phải sai lầm lần nữa. 

Em có thể hiểu em, nhưng em không thể nào hiểu anh. 

Em hận thời gian, hận món nợ mà thời gian đã nợ chúng ta. 

Em hận cuộc đời, hận cuộc đời đã đẩy chúng ta vào cảnh khốn khổ mới chịu dừng tay. 

Nhưng đến cuối cùng thì em vẫn không chiến thắng được nó. 

Chúng ta vốn có thể thắng, nhưng chúng ta đã thua. 

Để tất cả kết thúc một cách bình lặng đi. 

Em như một đứa trẻ lang thang, anh nhặt được em về, rồi lại đánh mất em. 

Đừng tìm em nữa. 

Có thể anh sẽ tìm thấy em, nhưng anh không thể tìm thấy chính anh. 

Em vốn muốn đem tinh thần mình gửi gắm cho anh, giờ đành tiếp tục ký thác cho trời xanh kia vậy. 

Còn thể xác ? Lưu lạc nơi nào ? Lên Thiên Đường ? Xuống Địa Ngục ? 

Đi đâu cũng không quan trọng. 

Anh nhớ giữ gìn.  

Em đã xem mặt trời mọc ở di chỉ Cổ Cách. 

Trát Ba nói đúng lắm, tất cả ý nghĩa của cuộc sống đều chất chứa ở đó. 

Em cũng nhìn thấy ý nghĩa của chúng ta ở đó. 

Vì thế nên em đã khóc.  

Đọc xong thư, hát Những bông hoa ấy cho em được không ? 

Không ngờ lại đúng như lời hát ...  

Chúng ta là vậy đấy, mỗi người một chân trời. 

Tôi hát Những bông hoa ấy, hát Vincent, hát Ấm áp. 

Tôi ngồi một mình cất cao tiếng hát vì Lông Mi, cho đến khi cổ họng rát bỏng, không hát ra tiếng được nữa. 

Nước mắt lã chã chảy xuống, làm ướt đẫm bức thư đã từng ướt đẫm nước mắt Lông Mi của tôi. 

Hai tay run run, cẩn thận gấp bức thư lạ, cho vào túi áo gần lồng ngực nhất, rồi lau khô nước mắt, bước ra ngoài với nụ cười trên môi. 

Trở lại con phố dài. 

Đi vào dòng người chen chúc. 

Để được đắm chìm trong ráng chiều. 

Để chiều tà sửa ấm tôi. 

Không hối hận, cũng không hi vọng. 

Đi đến bên cạnh Lông Mi của tôi. 


Tôi đợi mấy tháng liền ở quán café nhỏ đấy. 

Tất nhiên là không đợi được Lông Mi. 

Khoảng thời gian ấy có đến Cổ Cách một lần. 

Đó là một buổi chiều nắng vàng rực rỡ. Tôi đứng đó ngẩn ngơ, ngắm mặt trời lặn, kích động đến nỗi không nói nên lời, đầu óc trống rỗng. 

Tôi cứ nhìn thế thật lâu. Phảng phất như tôi đã biến thành di chỉ, còn Cổ cách thì trở thành khách tham quan. 

Hoàng hôn xuống, những bức tường đổ nát tắm trong một màu đỏ rực như máu. 

Phảng phất như nơi đây không phải do bàn tay con người tạo nên, mà là một phần của vỏ trái đất, từ khi địa cầu sinh ra đã có ở đó rồi. 

Cảm giác giống như Ankor và Herculaneum vậy. 

Herculaneum đã bị núi lửa Vesuvio nhấn chìm, còn Cổ Cách thì bị thời gian chôn lấp, lại càng thê lương hơn gấp bội. 

Tôi tìm một bức tường đất vững chãi, đào một lỗ nhỏ. Lấy mảnh xương của Trát Ba ra, hôn lên một cái, rồi nhét vào trong đó, lấp đất lại. 

Ngẩng đầu, trên trời cao xanh thẳm, vài cánh chim ưng đang giương cánh tung bay. 

Đó có phải là Trát Ba không ? 

Tôi ngước mắt lên theo ánh mặt trời, nheo nheo mắt nhìn, lòng hạnh phúc thầm hỏi. 

Ngồi mãi ở Cổ Cách. 

Trời xanh. Tịch dương. Hoang sơn. Gió lạnh. Chim ưng. Kiệt tác của tự nhiên vĩ đại. 

Huyết dịch trong người như sôi trào, cảm khái vô vàn. 

Không nghĩ đến thời gian dài ngắn. 

Thùng gỗ đựng được bao nhiêu nước quyết định bởi miếng gỗ ngắn nhất. 

Thời gian cũng vậy: dù dài hay ngắn, cuối cùng rồi cũng trở thành ngắn hết cả. 

Tỷ như: di chỉ Cổ Cách đây sẽ tiếp tục tồn tại thêm ngàn vạn năm nữa, còn tôi nhiều lắm cũng chỉ sống thêm được năm mươi năm. Thời gian tồn tại của di chỉ Cổ Cách "dài" so với thời gian tồn tại của chúng ta "ngắn" ... nhưng một khi chúng ta chết đi, thì "di chỉ Cổ Cách" của chúng ta cũng theo đó mà chết đi. Tất cả những thứ "dài" và "ngắn" trên hành tinh này đã gần tiếp nhau ở tầng ý nghĩa đó. 

Chợt nhớ đến câu nói của Lông Mi, nếu có ngày em biến mất, liệu anh có vừa khóc vừa gào thét, chống gậy đi khắp nơi tìm em, tìm đến khi nào mái tóc kia cũng bạc trắng hay không ? 

Thì ra, mỗi đôi tình nhân đều có một số mệnh. 

Số mệnh này bị trời cao trên kia nắm giữ, không thể thương lượng, không thể lùi bước. 

Có lẽ kết cục này, chính là số mệnh của tôi và Lông Mi ? 

Chợt bừng tỉnh, nước mắt trào ra chảy dài trên má. 

Kiên cường không để nước mắt chảy nữa.  

Giấu nước mắt vào trong tim. 

Giấu tình cảm đi. 

Giấu người yêu vào một khóc khuất trong lòng.  

Khắc lên một bức tường đất: Lông Mi của anh. 

Rồi lặng lẽ bỏ đi.  

Sau đó tôi bắt đầu lưu lạc. 

Núi tuyết. Đồng cỏ. Suối nước. Thành cổ. Thôn làng. Sông băng. Rừng sâu. 

Tôi đi tất cả những nơi mà tôi muốn đi, làm tất cả những chuyện tôi muốn làm, hỏi han tất cả những người có thể hỏi han, chỉ để tìm được Lông Mi, chỉ vì muốn cùng em chia sẻ chung một số phận. 

Tôi bắt đầu thích kể chuyện. 

Cho dù ngồi ở đâu, cho dù bên cạnh là ai, cho dù có hay không có người nghe, tôi đều ngồi bệt xuống đất, hoặc là tắm nắng dưới ánh mặt trời của cao nguyên Tây Tạng, hoặc là đối diện với dòng nước cuộn chảy, hoặc dựa lưng vào ngọn núi tuyết hùng vĩ, hoặc ở trong những quán trà quán bar này nọ, tôi đều đốt một điếu thuốc, mỉm cười, lẩm bẩm kể câu chuyện của chính mình. 

- Có một người thường hay đánh mất đồ. 

Đây là mở đầu của câu chuyện. 

- Mất cái gì ? 

Thỉnh thoảng lại có người hiếu kỳ chêm vào một câu. 

- Mất sách, mất ví tiền, mất chứng minh thư, mất chìa khóa, mất cả người yêu. 

- Sau đó thì sao ? 

- Đi tìm kiếm khắp nơi. 

- Đơn giản vậy thôi sao ? 

- Đơn giản thế thôi. 

- Sớm đã biết như vậy, sao từ đầu không biết trân trọng ? 

Tôi không tìm được lời nào để đáp lại, nước mắt chảy dài. 

Cứ để nước mắt rơi trong ánh mắt giễu cợt của mọi người. 

Một ngày của nửa năm sau. 

Tôi trở lại thành phố mà từ nơi ấy mình đã ra đi. 

Bởi vì đó là tiết Thanh Minh. 

Tôi đến thăm mộ Bì Tử. 

Lấy ra ba hộp xì gà, xếp trước bia mộ theo số tuổi của cậu ta, rồi lấy bình whiskey nhỏ, bên trong có thứ rượu Vodka mà cậu ta ưa thích, cứ uống một ngụm thì đổ xuống trước một một chút, cứ thế lặp đi lặp lại. Tôi ngồi hết cả buổi chiều, nhớ lại những chuyện đã qua, ngâm nga những bài hát Bì Tử thích nghe. Muốn rơi chút nước mắt, hi vọng trong lòng sẽ dễ chịu hơn phần nào, chỉ tiếc là lại không thành công. 

Đột nhiên nhận ra thành phố này đã không còn gì để lưu luyến nữa. 

Nó đã không thuộc về tôi, tôi cũng không cần phải tiếp tục thuộc về nó. 

Dường như có một không gian khác đang đợi chờ tôi phía trước. 

Tôi không ở đây lâu, không gặp ai hết, đem bán hết nhà cửa, thứ nào cần thiết thì đóng bao gửi đi, thứ nào quý giá mà không gửi đi được thì bán sạch, còn đồ nào không quý thì đem tặng cho những người lang thang ở đầu phố. Tôi mang theo cây tiên nhân cầu Kim Hổ, con chó con, và tất cả những gì Lông Mi để lại, từ đây vĩnh biệt thành phố đau thương này. 

Đến Tiểu Trung Điện, tôi mua được một mảnh đất với giá khá rẻ. 

Vị trí rất tuyệt. Xa xa là núi tuyết, một dòng sông nhỏ lững lờ chảy qua, đồng cỏ rộng mênh mông bát ngát. 

Một người bạn ở Lệ Giang giúp tôi làm thiết kế, tìm cả một đội thợ xây đáng tin cậy. Tôi không xây nhà kiểu người Tạng, mà xây một ngôi nhà ba tầng theo phong cách Texas. Ngôi nhà gỗ nhỏ rất đặc biệt, nổi bật lên giữa đồng cỏ rộng lớn. Nếu từ Lệ Giang đi xe đến Hương Cách Lý La, đi qua Tiểu Trung Điện, chỉ cần để ý quan sát dưới chân núi tuyết là sẽ thấy ngay. 

Đó là nhà tôi. 

Cũng là nhà của Lông Mi. 

Chỉ vì em đã từng nói, muốn xây một ngôi nhà gỗ dưới chân núi tuyết, lặng lẽ sống cả một đời. 

Người chỉ có một cuộc đời. 

Cuộc đời này, cho dù không thể ở bên Lông Mi, cũng phải ở bên giấc mộng của em. 

Huống hồ ở đây, tôi càng dễ tìm được em. 

Tôi tập cho mình thức dậy đúng giờ, tắm nước lạnh, làm cơn sáng rồi ăn chung với Nivola. 

Ăn xong, tôi dẫn Nivola đi chạy bộ trên đồng, dọc đường có rất nhiều hoa, lúc trở về tôi cũng hái một ít cắm vào bình, rồi ra ngoài cuốc đất trồng rau, tưới nước chăm bón. 

Buổi sáng tôi còn tập cả leo núi nữa. Tôi gia nhập vào một câu lạc bộ leo núi nghiệp dư, dự định tìm một ngày nào đó sẽ leo lên đỉnh núi Mai Lý. Còn ngọn núi thần Karakorum kia thì đương nhiên là không dám mơ. Cho dù có cái khả năng ấy, tôi cũng chẳng làm. Thế giới hiếm hoi lắm mới có một nơi chưa đặt dấu chân người, giữ lại cũng là một chuyện rất có ý nghĩa. Dù sao thì chân người và thần trong lòng người dân Tạng cũng bẩn hơn rất nhiều. 

Ăn xong bữa trưa, tôi lại lên sang thượng tắm nắng rồi ngủ trưa, ngủ dậy thì dẫn Nivola đi làm nông. Thứ gì có thể tự túc tự cấp được thì tôi đều cố hết sức để tự làm. Tôi trồng rất nhiều rau và cả một giàn nho lớn. Cuộc đời là một vòng tròn, bao nhiêu sở thích hồi nhỏ giờ lại trỗi dậy. Thậm chí tôi còn mua cả hai con bò Tây Tạng để thả nuôi. Càng lúc tôi càng cảm nhận được lạc thú khi giao tiếp với động vật và thực vật, một lạc thú lớn lao mà trước nay con người luôn bỏ lỡ. 

Những lúc khác thì tôi đọc sách. Khoảng thời gian đó tôi đã đọc hết cả Whitman, Kafka, Nhị Thập Tứ Sử, thậm chí cả Kinh Coran nữa, dường như những tác giả ấy đang cùng tôi trả qua những ngày tháng cô đơn này vậy. Thậm chí tôi còn bắt đầu nghiên cứu Tạng Kinh, bắt đầu tôn trọng tôn giáo, tôn trọng thứ sức mạnh thần bí mà tôn giáo tạo ra, tôn trọng thứ sức mạnh khiến cả trăm ngàn người phải phủ phục đầu bái lạy. Trên trái đất này, trước mắt chỉ có tôn giáo là làm được điều đó, làm cho một người phải cam tâm tình nguyện cúi đầu. Vì vậy tôn giáo rất đáng được coi trọng. 

Nghĩ nhiều cũng mệt, tôi ôm đàn lên tầng ba, nhìn ngọn núi tuyết nổi bật giữa màn đêm, đàn vài bài, thở dài trước cuộc đời, và lại nhớ đến Lông Mi. 


Cuộc sống của tôi quá khác biệt so với người dân trong vùng, nên làm họ rất hiếu kỳ, thậm chí là có cả địch ý: một người Hán xa lạ dẫn theo một con chó nhỏ, chẳng hiểu sao lại mò đến đây, dựng nên một căn nhà quái dị, sống kiểu quái dị, tách biệt với thế giới bên ngoài, hoàn toàn không có điểm gì tương đồng với cách sống của họ hết. 

Thái độ thù địch đó cứ tăng dần tăng dần, cho đến khi xảy ra một chuyện. 

Một đêm, tôi đang chuẩn bị đi ngủ thì đột nhiên có người gõ cửa. Ra mở, thì ra là một đôi vợ chồng người Tạng. Trên tay người vợ ôm một đứa trẻ, người chồng dùng thứ tiếng Hán lơ lớ của mình nói đứa bé đang bị sốt, không tìm được xe, họ nghe nói tôi có một chiếc xe hơi, muốn nhờ đưa đứa bé lên huyện cấp cứu.Tôi vội vàng lái xe đưa họ đến bệnh viện. Lúc đi cả hai vợ chồng đều không kịp mang tiền, tôi bèn ứng ra trả trước, còn nằm trên ghế dài bên ngoài bệnh viện, đợi họ truyền nước cho đứa trẻ xong thì đưa cả hai trở về. 

Hai vợ chồng này vì thế mà rất cảm kích tôi, thường hay đến chơi, mang cho tôi một ít đặc sản trong vùng. Tôi cũng tặng lại họ một ít xì gà. Vậy là gặp ai họ cũng nói: 

- Anh chàng người Hán mới đến đó hay lắm. 

Có lúc hai vợ chồng còn dẫn cả mấy người bạn đến chỗ tôi, mỗi lần thế tôi lại lấy xì gà, whiskey ra chiêu đãi họ, mời họ nghe The Beatles, xem vô số các đĩa phim mà tôi thu thập được. Họ có vẻ rất thích, cứ rỗi là đến chơi, về sau thì thành nghiện, có việc hay không có việc cũng đều đến hết. 

Sau rồi nhà tôi như biến luôn thành một quán rượu nhỏ. Cứ đến chập tối là mấy anh chàng người Tạng lại rủ nhau: "đến chỗ Quản Ngai uống rượu tây, hút thuốc lá tây, xem đàn bà tây", có người đến chỉ để hút xì gà uống whiskey, có người thì nghe những thứ âm nhạc kỳ lạ và đầy mới mẻ với họ, có người chỉ thích nằm dài xem đĩa, thậm chí còn có người học ghita với tôi nữa. Mọi người đến nhiều lần, cuối cùng cũng thấy ngại, bèn theo giá mà trả tiền. Tôi nghĩ cũng được, bằng không sớm muộn gì mình cũng phá sản. 

Trên quang đường từ Lệ Giang đến Hương Cách Lý La, không có cái khách sạn nào ra hồn, càng không cần nói đến quán bar. 

Căn nhà gỗ của tôi cách mặt đường không xa lắm, khách du lịch ba lô đi bộ qua, thấy có ánh đèn, có người, có tiếng nhạc, tưởng là khách sạn bèn đi vào luôn. Tôi sống ở đây nên cũng chịu ảnh hưởng của người dân ở đây, ai ai cũng được tiếp đãi rất nhiệt tình, lúc nào phòng khách trên tầng hai cũng chuẩn bị sẵn sàng. Có lẽ là căn nhà đậm chất quán bar miền Tây này và những người dân Tạng ăn mặc kiểu truyền thống, không khí hoàn toàn thoải mái đã khiến họ cảm thấy vừa mới mẻ vừa cảm động, dường như đã tìm được một nơi để tâm hồn mệt mỏi của họ được nghỉ ngơi. 

Tôi chỉ tiếp đãi họ như khách chứ không thu bất cứ khoản phí nào. Về sau người càng lúc càng nhiều, ăn uống đều do tôi bao hết, mọi người thấy ngại, đều chủ động trả tiền. Tôi không nhận, hò liền nhét vào cái túi trên áo của Nivola. Chỉ cần có người trả tiền, là lại nghe tiếng gọi Nivola ra. 

Một truyền mười, mười truyền trăm, rất nhiều khách du lịch ba lô thích kể lại hành trình của mình lên mạng, làm chỗ của tôi mỗi lúc một nổi tiếng. Mới đầu thì chỉ có người thuận đường ghé qua ngồi chơi, về sau thì chỉ cần đi Hương Cách Lý La là họ đều rẽ qua chỗ tôi. Cuối cùng thì cho dù không đi Hương Cách Lý La họ cũng tìm tới chỗ tôi. Rất nhiều đoàn làm phim tới đây xin quay ngoại cảnh, nhưng tôi đều từ chối, ngoại trừ hai lần có hai đoàn làm phim độc lập tới quay những bộ phim có chất lượng cao tương tự như phim Himalaya thì tôi đồng ý. 

Trong nội địa bùng phát dịch SARS, rất nhiều người nhàn rỗi đều dồn cả về miền Tây này du lịch, khách sạn kiêm quán bar nhỏ của tôi chật cứng những người là người, hôm nào cũng người đến hỏi thăm xem có còn phòng không. Cuối cùng tôi đành mở rộng quy mô, tầng dưới làm thành quán bar kiểu thôn dã miền Tây, tầng hai là quán ăn, tầng ba là phòng nghỉ. Tôi nhờ hai vợ chồng người Tạng kia tới giúp một tay. Người chồng tên là Tang Đạt, chuyên phụ trách nhập hàng, vợ anh ta phụ trách tiếp khách. Về sau đông quá, tôi bèn mời luôn cả cha mẹ Tang Đạt đến phụ trách nhà bếp, tầng hai biến thành quán ăn kiểu Tạng chính cống, thành ra càng được hoan nghênh gấp bội. 

Thời gian trôi đi như tên bắn. 

Lông Mi vẫn biệt vô âm tín, giống như một đại lục Alantis đã biến mất không để lại chút dấu vết gì vậy. 

Có điều lâu dần rồi tôi cũng quen với những ngày tháng sống một mình. Để giết thời gian, tôi tiếp tục viết sách, định tặng nó cho Lông Mi, ngoài ra tôi còn kiên trì viết nhật ký, ghi lại những chuyện xảy ra hàng ngày theo hình thức đối thoại. Có tâm sự gì, là tôi lại kể cho Lông Mi nghe thông qua cuốn nhật ký, sau đó bắt trước giọng của em để trả lời, sau đó tôi lại trả lời đáp lại, cứ như hai người ngày nào cũng ở bên nhau vậy. 

Chỉ cần có quán rượu, là sẽ có vô số câu chuyện kỳ lạ. 

Có một lần, một đám sinh viên ngồi trên quầy bar uống rượu, một cậu phàn nàn trong ký túc xá mình có một thằng tính tình quái dị, lúc nào cũng đi lại một mình, nghèo kiết xác, người vừa bẩn vừa hôi, cực kỳ đáng ghét, gần đây còn rất thích nghiên cứu các vụ án giết người nữa. 

- Cẩn thận nó giết hết cả bọn mình cũng nên. 

Một cậu ngồi cạnh chọc vào, vậy là cả bọn cùng người ồ lên. 

Mấy ngày sau đó, tôi nghe kể có một vụ án đẫm máu, một tên tội phạm bị truy nã đã vô duyên vô cớ cầm búa giết sạch sinh viên trong một phòng ký túc xá! Liên tưởng đến mấy cậu sinh viên hôm nọ, trong lòng không khỏi thầm lo lắng. 

Một lần khác, một tay người nước ngoài ngồi trên quầy bar nói chuyện với tôi. Anh ta là một nhà địa chất nghiệp dư, đang nghiên cứu kết cấu thay đổi địa chất của Himalaya và các ngọn núi khác ở Vân Nam. Anh ta nói đồng cỏ này vừa hay nằm giữa hai mạch núi đứt gãy, vào thời kỳ hoạt động mạnh, nơi đây thường có địa chấn động đất ... ngoài ra còn nói rất nhiều thứ khác nữa, nhưng tôi thật sự là không hiểu lắm, nghe xong chỉ biết cười cười. 

Những câu chuyện nhỏ liên quan đến các cô gái cũng thường xảy ra, có điều giờ tôi chỉ là khán giả, không là diễn viên nữa. Khách nữ đến quán tôi đều coi như khách nam mà tiếp đãi, nói gì cũng được, miễn là đã cái miệng, nhưng cứ hễ đề cập tới vấn đề tình dục là tôi đều né tránh. Không phải là tôi muốn giữ mình thanh cao, mà đó chỉ là một thứ trách nhiệm đối với Lông Mi. Tuy em không còn ở bên tôi, nhưng trong lòng đã quyết, hơn nữa lại có một ước hẹn thì phải thực hiện nó cho được, không thể trở mặt đầu hàng quân địch lần nữa. 

Tiếp tục tìm kiếm Lông Mi. 

Mỗi tháng tôi đi Đại Lý một lần, cứ ba tháng thì đi Phượng Hoàng một chuyến, nửa năm đến Trường Bạch Sơn một lần, lần nào cũng để lại ảnh Lông Mi, thậm chí còn đăng cả chuyện tìm người lên tạp chí du lịch nữa. Có lần tình cờ gặp được một người bạn vẽ của Lông Mi, người đó nói từng gặp em ở Nepal, vậy là tôi đi luôn một chuyến tới đó, nhưng đương nhiên là cũng không thu hoạch được gì. 

Dần dần, tên của tôi đã bị người ta quên mất. 

Tôi có thêm một cái tên mới: "chàng ngốc đi tìm Lông Mi" 

Cái bóng cô độc của tôi trên khắp các nẻo đường trở thành một Forest Gump trong hiện thực, trở thành đối tượng bị chê cười. Nhưng tôi không hề để ý, cứ tiếp tục kiếm tìm, tiếp tục thăm hỏi, tiếp tục nhờ vả, tiếp tục mỉm cười đi tới. Thời gian trôi đi, mọi người không còn cười tôi nữa, ngược lại còn tỏ ra kính phục và đồng tình, thậm chí còn ngộ ra được điều gì đó từ câu chuyện của tôi nữa. 

Có vẻ hơi giống với nhà triết học Hy Lạp của trường phái khuyển nho Diogenes, ông theo chủ nghĩa khổ hành, sống như ăn mày, mặc kệ người khác cười nhạo, chỉ mong từ đó có thể tìm ra được định nghĩa cho một cuộc sống lý tưởng. Ông đốt đèn giữa ban ngày, hi vọng có thể tìm được một người nào thành thực. 

Tôi đương nhiên là không cao thượng như vậy, dù chỉ một phần mười cũng không bằng. Tôi chỉ là làm việc theo suy nghĩ của mình, chỉ muốn tìm lại người con gái mà tôi yêu, chỉ đơn giản có vậy thôi. 

Cái gọi là cao thượng, thực ra chỉ là một câu rắm thối để gãi ngứa cho Thượng Đế vĩ đại mà thôi. 

Nếu có thể tìm được Lông Mi, tôi chấp nhận biến mình thành một kẻ tà ác đáng sợ nhất trên đời này. 


Thời gian thấm thoắt. 

Chẳng mấy mà một năm đã qua.  

Một hôm, chợt thấy tâm trạng mình vô cùng thoải mái. 

Giống như núi tuyết xung quanh tất thảy đều tan chảy, làn nước băng lạnh ấy chảy cả vào dạ dạy tôi vậy. 

Sáng sớm đã bò dậy, đun một tách café, rồi lên sân thượng, phóng tầm mắt nhìn khắp bốn phương. 

Một năm rồi lại một năm, mọi thứ trước mắt vẫn không thay đổi, bao gồm cả bản thân tôi. 

Chỉ có mình thời gian là thay đổi. 

Trước đây lúc nào cũng mong mỏi đột nhiên gặp được Lông Mi, khát vọng được xúc động như dòng suối mát tưới cho sa mạc khô cằn cuồn cuộn. Giờ thì tôi đã không còn ôm ảo tưởng đó nữa. Tất nhiên đấy cũng không phải là tuyệt vọng. Đối với tôi, chờ đợi và tìm kiếm em đã dần dần trở thành một phần của cuộc sống. Lông Mi từ lâu đã có mặt ở khắp mọi nơi trong tôi và trong cuộc sống của tôi. 

Đa phần thời gian, tôi như một ông già đã trả qua hết thương hải tang điền, vui vẻ nhớ lại quá khứ, hạnh phúc đối diện với tương lai. Không quá mừng rỡ trước ngày gặp lại, cũng không quá bi thương vì đã mất đi. Cuộc sống bình lặng như nước, thong dong nhàn nhãn, không liên quan gì đến được mất, phúc và họa cũng như nhau ... những cảm xúc nà dần dần hòa vào huyết dịch, trở thành bản tính và thói quen sống, trở thành một phần của "tôi", chứ không còn là những cảm giác thoáng qua như thuở trước nữa. 

Cảm giác tự do chưa từng thấy. 

Tự do một cách thật sự, vượt lên trên tất cả những ham muốn xưa nay vẫn trói buộc mình. 

Chỉ cần nhắm mắt lại, là tôi sẽ cảm thấy mình đang bay tự do tự tại trong không khí. 

- Để một giọt nước tồn tại mãi mãi, tốt nhất là đem thả nó vào đại dương mênh mông. 

Có vậy mà thôi.  

Tôi ngồi ngẩn ra cả một ngày. 

Tay cầm ly café, bên cạnh dựng cây đàn ghita. Khát thì uống café, buồn thì chơi đàn. Cứ thế, chỉ để ngồi, thỉnh thoảng lại gọi Nivola lại cho ăn, rồi mình cũng ăn. 

Hoàng hôn. 

Cơn gió mềm mại từ núi tuyết thổi về, bao bọc lấy tôi, dịu dàng tha thiết. 

Chạng vạng chiều, tôi đến thị trấn nhỏ gần đó mua đồ. 

Đột nhiên trời đổ mưa. Mưa rất to. 

Tôi vội vàng ôm Nivola lên, chạy vào xe. 

Chiếc xe từ từ chuyển động trên con đường vắng tanh. 

Bên cạnh thỉnh thoảng lại lướt qua một chiếc xe việt dã phóng như bay. Đường vắng, nên họ đi rất nhanh. 

Đi qua một giao lộ, thấy phía trước có đèn đỏ, bèn dừng lại đợi. 

Mưa mỗi lúc một lớn. Cái gạt nước ra sức lắc qua lắc lại. 

Núi tuyết xa xa, đồng cỏ, dòng sông, trang trại, nhà cửa, đàn bò Tây Tạng, tất cả đều trở nên mông lung, mơ hồ. 

Thở dài một tiếng. 

Bật đầu đĩa lên, là bài hát đã lâu lắm rồi chưa nghe. Những bông hoa ấy của Phác Thụ. 

Ký ức là một thứ thật kỳ quái. 

Nó luôn ngủ say trong ta. Nhưng luôn có một bài ca có thể nhẹ nhàng đánh thức nó dậy. 

Lúc ấy, ký ức sẽ trào dâng, phủ kín cõi lòng ta, chảy đi khắp nơi. 

Một buổi tối như thế, cũng mưa như thế, cũng bài ca ấy, cũng tâm trạng ấy, dường như cách đây thật lâu thật lâu đã từng xảy ra một lần. 

Cố gắng nhớ lại. 

Góc phố dường như có một trạm điện thoại. 

Bên trong có một cô gái tránh mưa. 

Một cô gái tóc dài xõa ngang vai, gầy gò nhỏ bé, cặp mắt mở to đầy hoang mang, đôi lông mi dài như cánh bướm, áo khoác rộng thùng tình, khăn quàng cổ dài thượt, trong lòng ôm một con dê đồ chơi nho nhỏ, trên lưng đeo ba lô to tướng. 

Mắt bắt đầu nhòa đi. 

"Chúng ta là như vậy, mỗi người đi một chân trời."  

Tiếng hát của Phác Thụ văng vẳng bên tai. Tôi khẽ thở dài.  

Đột nhiên Nivola chồm lên cửa sổ sủa "oắc oắc oắc" mấy tiếng. 

Tôi liền đưa tay xoa xoa tấm kính mờ mờ, quan sát xung quanh. 

Một chiếc xe bus cỡ vừa dừng lại bên cạnh, đợi đèn đỏ. 

Tôi xoa xoa lên cái đầu nhỏ của Nivola, cho nó ăn một tiếng chocolate, rồi rút khăn giấy ra, mở cửa xe, lau lau tấm kính chiếu hậu mờ mờ vì nước mưa. Soi mình vào trong gương, chỉ thấy một người râu ria xồm xoàm, đầu tóc bù xù. 

Thở dài một tiếng. Ngẩng lên nhìn chiếc xe kia. 

Chỉ có vài hành khách ngồi dựa vào cửa sổ, trông cũng vắng vẻ tiêu điều. 

Lau xong gương chiếu hậu, tôi lại kéo cửa xe lên. 

Ánh mắt tình cờ lướt qua cửa sổ xe bus, một cánh cửa chầm chậm kéo xuống. Trong mưa, tất cả các cửa sổ đều đóng chặt, nên cánh cửa này rất bắt mắt. 

Cửa sổ mỗi lúc một thấp. Một gương mặt con gái từ từ hiện ra. 

Đầu đội mũ len. 

Mái tóc dài buông xõa ngang vai. 

Đôi vai gầy nhỏ nhắn Một chiếc khăn quang cổ dài thượt, cũ kỹ quấn quanh chiếc cổ dài xinh xắn. 

Đôi mắt to tròn hoang mang lặng lẽ nhìn ngọn núi tuyết mông lung trong màn mưa, như đang suy nghĩ điều gì đó. 

Cặp lông mi dài đẹp như cánh bướm, thi thoảng lại chớp chớp, dường như đã có mấy phần mệt mỏi. 

Chiếc áo khoác rộng thùng tình, ở khuỷu tay đã bị mài cho trắng bóng, hình như là vẫn chưa nỡ vứt đi. 

Một nửa cái đầu của con dê nhồi bông nhú lên, hơi bẩn. 

Sắc mặt trắng nhợt, dường như đã trải qua nhiều vất vả cực nhọc của cuộc đời, nhưng vẫn đầy vẻ kiên cường cố chấp, quyết không chịu cúi đầu trước bất cứ điều gì hay bất cứ ai. 

Cả bức tranh đậm một màu xám xịt, thứ duy nhất có sức sống, là chiếc nhẫn ngọc sáng lấp lánh treo ở cổ kia. 

Là Lông Mi.  

Tôi ngẩn người ra. 

Máu trong người như sôi lên sùng sục, toàn thân cứng đờ vì kích động quá đỗi. 

Tôi há hốc miệng, nín thở, suýt chút nữa thì ngạt thở, nấc liền mấy tiếng. 

Đại não xưa nay vốn phản ứng rất tốt, hình như đột nhiên bị bứt hết các mạch máu, và dây thần kinh, tê liệt đình trệ. 

Đến lúc tôi khôi phục lại phản ứng thì xe bus đã chuyển động, cánh cửa kia cũng chầm chậm nâng lên. 

Tất cả mạch máu và dây thần kinh mau chóng được nối lại, tư duy lập tức trở lại bình thường. 

Chỉ có một sợi thần kinh là chưa được nối. Sợi thần kinh ấy có tên là "bình tĩnh". 

Thực ra chỉ cần nổ máy xe, đi sát theo sau, dù là chân trời góc biển, chỉ cần theo sau bén gót, quyết không bỏ cuộc, thì hạnh phúc sẽ đến tay. Hạnh phúc mà tôi ngày đêm mơ tưởng sẽ đến tay. 

Vậy mà tôi lại lỗ mãng mở cửa xe, nhảy xuống đường, định chạy lên phía trước, đánh thức người con gái quan trọng nhất đời mình dậy. 

Quên mất rằng đèn đỏ đã chuyển sang màu xanh. 

Tôi nhảy xuống xe, còn chưa kịp đứng vững thì đã bị một chiếc xe việt dã phía sau lao lên đụng trúng. 

Thứ cuối cùng mà tôi nhìn thấy là: chiếc xe bus dừng lại dưới mưa, có rất nhiều đầu người thò ra ngoài. 

"Tốt rồi, Lông Mi có lẽ sẽ nhìn thấy tôi." 

Tôi đau đớn bò trên mặt đất, mỉm cười, yên lòng nhắm nghiền mắt lại. 

Thế giới chìm trong bóng đêm.  

Tôi đã nói rồi, 

Tôi có một giấc mộng, 

Một giấc mộng tưởng chừng như kéo dài hết cả đời người, 

Giấc mộng của tôi lại tiếp tục ... 

Tôi đứng trước cửa căn nhà gỗ. 

Đằng xa, Lông Mi chầm chậm bước đến. 

Giống như Morgan Freeman trong phim The Shawshank Redemption: một con người vừa giành lại tự do, bước đi trên vịnh Mexico rộng mênh mông, từng bước chân kiên định, không hề sợ hãi tiến về phía Tim Robin. 

Chiếc nhẫn ngọc trên cổ Lông Mi sáng lấp lánh dưới ánh mặt trời rạng rỡ. Ánh nắng chiều rải lên người em một màu vàng óng ả, tựa như một vầng hào quang. 

Tôi mỉm cười hạnh phúc, mắt rưng rưng lệ. 

Chầm chậm cất bước, bước lên đón lấy em.  

Đột nhiên có một tiếng nổ ầm vang. 

Mặt đất dưới chân tôi sụt xuống, hai chân mềm nhũn, tôi ngã nhào xuống. 

Kinh khủng nhận ra. 

Ở giữa Lông Mi và tôi đã hiện ra một khe nứt khổng lồ đáng sợ! Tôi đang đứng trên khe nứt đó, mặt đất vốn chắc chắn đột nhiên xuất hiện những vệt như mai rùa, rồi tách nhau ra như băng trôi trên biển Bắc. 

Tôi ngẩn ra vì quá bất ngờ. 

Căn bản không kịp phản ứng gì. Trong nháy mắt, từng mảng đất lớn có chen chúc đè lên tôi. Những điều có thể làm được, chỉ là liều mạng bò lên phía trên theo bản năng, kinh hãi nhìn về phía Lông Mi. 

Em cũng sợ đến đờ người ra. 

Trong màn bụi đất mù mịt, em bịt chặt miệng như để kìm lại tiếng hét kinh hoàng, đứng đờ ra như tượng đá. 

Rồi như sực tỉnh, em lao thẳng đến chỗ tôi. 

Vết nứt rộng đã cản trở bước chân em. 

Nhìn thấy vẻ tuyệt vọng và quyết tâm nhảy xuống ôm tôi trong mắt em. 

Quyết tâm này khiến tôi run sợ. 

Trong khoảnh khắc ấy, tôi đã trấn định lại được. 

Tôi gắng sức nở một nụ cười, cánh tay đang vẫy vẫy cầu cứu biến thành chào tạm biệt, cố gắng áp chế tất cả các cảm giác đang trỗi dậy: nước mắt, hối hận, bi phẫn, sự đau đớn như xé ruột xé gan. 

Trong nháy mắt. Bùn, đất, cát, đá, cỏ cùng chèn lên ngực tôi, sức mạnh khổng lồ làm tôi tưởng chừng như tắt thở. 

Cố gắng giữ chút tỉnh táo cuối cùng, hét lên một câu với Lông Mi. 

Mắt tôi dần mờ đi, không còn thấy em đâu nữa. 

Bùn đất tràn lên đến cổ, làm tôi nghẹn lại, không thể phát ra bất cứ âm thanh nào. 

Khoảnh khắc. 

Trước mắt thoáng hiện ra rặng núi tuyết, đồng cỏ, rừng cây, căn nhà gỗ, mặt trời hoàng hôn, rồi tất cả chìm vào bóng tối. 

Trongkhoảnh khắc tỉnh táo cuối cùng ấy, tôi uất ức hét lên: 

- Tìm bao nhiêu lâu, sao vẫn không cho tôi chạm vào Lông Mi! F%$^! 

Tất cả lập tức chìm vào bóng đêm. 

Tưởng chừng như cả trăm triệu năm đã trôi qua. Đầu ngón tay tôi đột nhiên khẽ động đậy.  

Cuối cùng tôi cũng tỉnh lại. 

Không biết tỉnh lại từ đâu, không biết là mơ hay là thực. 

Từ từ mở mắt. Thấy mình đang nằm trên một chiếc giường có vẻ thân quen, cạnh giường có một bóng hình có vẻ như cũng rất thân thuộc. Mệt mỏi nhắm nghiền mắt lại. 

Cố đảo tròng mắt, cố rắng rặn ra nước mắt để hồi phục thị lực. 

Thầm nhủ không biết có nên giả vờ như đột tử ? Giả vờ đau đớn ? Hay giả bộ mất đi ký ức để trêu trọc Lông Mi ? Để thưởng thức cái lườm nguýt đáng yêu, cái dẩu môi tinh nghịch của em ? 

Trước mắt lại hiện lên hình ảnh ở Tây Đệ. Hoa cải vàng. Rừng cây. Mái ngói xanh. Dòng suối nhỏ. Tranh sơn dầu. Gương mặt Lông Mi đỏ bừng lên dưới ánh mặt trời. 

Rồi ở Trường Bạch Sơn. Bờ môi ngọt ngào mềm mại. Cặp lông mi dài cọ vào má. Hơi thở ấm áp phả vào cổ. Những chiếc lá vàng thi thoảng rơi trên vai. Tiếng suối chảy róc rách. Tiếng chặt cây ở lâm trường xa xa. 

Tôi nghĩ đi nghĩ lại, rồi len lén nở một nụ cười hạnh phúc. 

Chuẩn bị tinh thần. 

Sau bao ngày tìm kiếm trong tuyệt vọng, cuối cùng cũng được trùng phùng, cuối cùng cũng nhận được món quà tuyệt vời nhất của trời cao. 

Cho dù thế nào, cũng không thể cho Lông Mi nhìn thấy một ánh mắt yếu ớt già nua. Phải làm sao cho mình có sức sống một chút. 

Vừa nghĩ, tôi vừa từ từ mở mắt. 

Bóng người từ mơ hồ dần dần trở nên rõ nét. 

Tôi lại ngẩn ra. 

Sao không phải Lông Mi, mà lại là Bất Bất ? 

- Lông mi của anh thế nào rồi ? Sao cứ nói mớ mãi thế ? Lông Mi của anh vẫn còn nguyên cơ mà ? 

Bất Bất đượm vẻ lo lắng, nhìn tôi với ánh mắt khó hiểu. 

- Phải, Lông Mi của anh vẫn ở đây, cô ấy mãi mãi ở đây với anh. 

Nước mắt lưu trữ trong bấy nhiêu thời gian trào ra như nước vỡ bờ, che mờ thị tuyến, nhấn chìm tất cả. 

Tôi đã nói rồi, 

Tôi có một giấc mộng, 

Một giấc mộng tưởng chừng như kéo dài hết cả đời người, 

Tôi lại nhắm mắt lại. 

Hi vọng có thể trở về trong mộng ... 

Tôi có một người tình. 

Không cẩn thận đánh rơi mất rồi. 

Tôi lại có một người tình khác. 

Không cẩn thận lại đánh rơi mất. 

Nếu mỗi người đều phải dùng một câu đơn giản và dễ hiểu nhất để tổng kết đời mình, thì câu của tôi chỉ có vậy mà thôi.  

Tôi không sống ở Thiên Đường, cũng chẳng sống ở Địa Ngục. 

Tôi không lên nổi Thiên Đường, cũng chẳng xuống nổi Địa Ngục. 

Chỉ vĩnh viễn sống ở bên cạnh Thiên Đường. 

Chỉ cách Thiên Đường một chút xíu, nhưng cũng chỉ cách Địa Ngục có một chút xíu. 

Nếu mỗi người đều phải dùng một câu đơn giản và dễ hiểu nhất để tổng kết đời mình, thì câu của tôi chỉ có vậy mà thôi. 

--- THE END --- 


Trang Chủ Truyện teen Bay đến thiên đường
[ ↑ Trên cùng